
MỘT SỐ TRƯỜNG HỢP KHÔNG ĐƯỢC ỦY QUYỀN NGƯỜI KHÁC THỰC HIỆN
Uỷ quyền theo Điều 138 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Cá nhân, pháp nhân có thể ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự” và tại Điều 562 quy định “Hợp đồng ủy quyền là sự thỏa thuận giữa các bên theo đó bên được ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh bên ủy quyền, bên ủy quyền chỉ phải trả thù lao nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định”

Uỷ quyền là một công việc mà một cá nhân, tổ chức có thể thay cá nhân, tổ chức khác thực hiện một hay nhiều công việc theo sự thỏa thuận giữa các bên và công việc đó có thể trả thù lao hoặc không. Nhưng không phải mọi trường hợp đều có thể ủy quyền cho người khác thay mình thực hiện, một số trường hợp không được ủy quyền cần lưu ý như sau:
– Căn cứ tại khoản 1 Điều 18 Luật Hộ tịch năm 2014 quy định “Hai bên nam, nữ nộp tờ khai đăng ký kết hôn theo mẫu quy định cho cơ quan đăng ký hộ tịch và cùng có mặt khi đăng ký kết hôn”
Do đó, khi đăng ký kết hôn hai vợ chồng phải cùng nhau có mặt để hoàn thành thủ tục đăng ký kết hôn mà không thể ủy quyền cho người khác tham gia.
– Căn cứ tại khoản 4 Điều 85 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 quy định: “Đối với việc ly hôn, đương sự không được ủy quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng. Trường hợp cha, mẹ, người thân thích khác yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật hôn nhân và gia đình thì họ là người đại diện.”
Ly hôn là việc giữa vợ và chồng sẽ chấm dứt quan hệ hôn nhân về nhân thân và tài sản. Nên những vấn đề liên quan đến nhân thân thì vợ, chồng phải có mặt tham gia tố tụng (tham gia phiên họp công nhận thuận tình ly hôn hoặc phiên tòa giải quyết ly hôn đơn phương) để giải quyết. Nhưng trong quá trình giải quyết luật sư vẫn có thể tham gia để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
– Căn cứ tại khoản 1 Điều 56 Luật Công chứng năm 2014 quy định: “Người lập di chúc phải tự mình yêu cầu công chứng di chúc, không ủy quyền cho người khác yêu cầu công chứng di chúc.”
Bởi di chúc chính là ý nguyện của người để lại tài sản cho người khác sau khi chết nên việc thực hiện thủ tục công chứng di chúc phải do chính người này tự mình yêu cầu công chứng để đảm bảo đúng quy định các điều kiện di chúc có hiệu lực pháp luật.
– Căn cứ tại khoản 1 Điều 12 Thông tư 48/2018/TT-NHNN quy định: “Người gửi tiền phải trực tiếp đến địa điểm giao dịch của tổ chức tín dụng và xuất trình Giấy tờ xác minh thông tin của người gửi tiền; trường hợp gửi tiền gửi tiết kiệm chung, tất cả người gửi tiền phải trực tiếp xuất trình Giấy tờ xác minh thông tin của mình. Trường hợp gửi tiền gửi tiết kiệm thông qua người đại diện theo pháp luật, người đại diện theo pháp luật phải xuất trình giấy tờ chứng minh tư cách đại diện của người đại diện theo pháp luật, Giấy tờ xác minh thông tin của người đại diện theo pháp luật và Giấy tờ xác minh thông tin của người gửi tiền.”
Do đó, việc gửi tiền tiết kiệm tại các tổ chức tín dụng người gửi tiền tiết kiệm phải tự mình thực hiện giao dịch hoặc người đại diện theo pháp luật thực hiện không thể ủy quyền cho người khác.
– Căn cứ tại khoản 2 Điều 46 Luật Lý luật tư pháp năm 2009 quy định: “Trường hợp cá nhân yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp số 2 thì không được ủy quyền cho người khác làm thủ tục cấp Phiếu lý lịch tư pháp.”
Việc yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp số 2 phải do cá nhân người yêu cầu thực hiện mà không thể ủy quyền cho người khác thực hiện thay.