TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG KHI NGƯỜI GÂY THIỆT HẠI CHẾT

TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG KHI NGƯỜI GÂY THIỆT HẠI CHẾT

TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG KHI NGƯỜI GÂY THIỆT HẠI CHẾT

Căn cứ theo Điều 615 Bộ luật Dân sự năm 2015: “1. Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
2. Trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế trong phạm vi di sản do người chết để lại.
3. Trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
4. Trường hợp người thừa kế không phải là cá nhân hưởng di sản theo di chúc thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân.”

Do đó, nếu người gây ra thiệt hại đã chết thì trách nhiệm bồi thường sẽ do những người thừa kế của người đó thực hiện. Và những người thừa kế chỉ phải thực hiện nghĩa vụ tài sản không vượt quá phần tài sản mà mình được hưởng.

Nếu người chết để lại di sản thì những người sau đây sẽ có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại thay cho người chết:
– Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
– Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
– Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

Theo đó, thứ tự hưởng thừa kế được sắp xếp theo thứ tự các hàng thừa kế, những người cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau. Những người có trong hàng thừa kế thứ nhất phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại của người chết trước. Nếu không có hàng thừa kế  thứ nhất thì hàng thừa kế thứ hai hưởng di sản và có trách nhiệm bồi thường và tương tự đối với hàng thừa kế thứ ba.

Trường hợp người gây thiệt hại chết mà dưới 15 tuổi thì người bị thiệt hại có quyền yêu cầu cha, mẹ bồi thường thay do theo pháp luật quy định “Người chưa đủ mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 599 của Bộ luật này.” 

Trường hợp người gây thiệt hại chết bị mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi gây thiệt thì người bị thiệt hại có quyền yêu cầu người giám hộ bồi thường theo quy định “Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường.”

Như vậy, nếu người gây thiệt hại để lại di sản thừa kế thì người bị thiệt hại có thể yêu cầu những người được nhận thừa kế thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại. Nếu người gây thiệt hại chết dưới 15 tuổi thì người bị thiệt hại có quyền yêu cầu cha, mẹ bồi thường thay và trường hợp người gây thiệt hại chết bị mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi gây thiệt thì người bị thiệt hại có quyền yêu cầu người giám hộ bồi thường.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

shares